TƯ TƯỞNG NHO GIÁO CỦA HỒ QUÝ LY: ĐẠO ĐỨC CÔNG PHU HAY CHÍNH TRỊ THỰC HÀNH

TƯ TƯỞNG NHO GIÁO CỦA HỒ QUÝ LY: ĐẠO ĐỨC CÔNG PHU HAY CHÍNH TRỊ THỰC HÀNH

 

NGUYỄN KIM SƠN (*)

 

 Trên cơ sở trình bày những ghi chép ít ỏi còn lại về tư tưởng và học thuật của Hồ Quý Ly, phân tích những đánh giá của các nhà Nho cũng như của các học giả hiện đại về ông, trong bài viết này, tác giả đã luận giải để góp phần làm rõ thêm tư tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly. Theo tác giả, động cơ của Hồ Quý Ly khi thảo luận về Nho giáo mang sắc thái chính trị trực tiếp và đậm nét. Việc Hồ Quý Ly phê phán Tống Nho xuất phát từ nhu cầu đem tư tưởng hậu thuẫn cho hoạt động chính trị và cải cách. Điều đó khẳng định tinh thần trọng thực tiễn, trọng hoạt động kinh tế hơn công phu tu dưỡng đạo đức của ông.


 

Hồ Quý Ly (1336 – 1407) là nhân vật lịch sử đặc biệt và khá phức tạp. Việc đánh giá về Hồ Quý Ly xưa và nay rất khác nhau. Đã có khá nhiều cuộc hội thảo, chuyên luận, tiểu thuyết, tiểu luận, luận văn viết về Hồ Quý Ly, nhưng dường như còn nhiều vấn đề bỏ ngỏ hoặc cần được tranh luận, tái tranh luận, nhận thức lại, và đương nhiên cần có cả những cách đặt vấn đề khác, hướng tư duy khác về một vấn đề tưởng như đã cũ.

Các đánh giá về Hồ Quý Ly phức tạp vì tầm vóc lịch sử của ông lớn, trong sự nghiệp đó có cả cái hay lẫn cái dở, cả thành lẫn bại. Điều đó khiến cho những người ở các thời đại khác nhau, góc nhìn khác nhau, mục tiêu khác nhau đã đánh giá ông theo những gì mà họ cảm nhận và tâm đắc. Đánh giá về hiện tượng Hồ Quý Ly đã phức tạp, song đánh giá về tư tưởng của ông, đặc biệt là tư tưởng Nho giáo, lại càng phức tạp hơn. Trong cái đa dạng và phức tạp đó, có thể nhận ra sự lúng túng do thiếu tư liệu cùng những cảm xúc trái chiều và dĩ nhiên, thiếu cả một cái nhìn khách quan.

Bài viết này điểm qua vài nét nổi bật của lịch sử nghiên cứu, đánh giá tư tưởng Hồ Quý Ly, cố gắng phân tích những nguyên nhân và động cơ của các cách đánh giá, nhìn tư tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly như một thực thể sống động với những gì mà con người ấy phải đối mặt, cách hành động và lựa chọn hành động, đồng thời cũng đặt tư tưởng Nho giáo của ông trong tổng thể tư tưởng Nho giáo trong lịch sử để định vị và nhìn nhận.

1. Những ghi chép còn để lại

Hồ Quý Ly là một trong những nhà Nho Việt Nam có những ý kiến thảo luận sớm nhất về Nho giáo kể từ sau độc lập. Tuy nhiên, những gì mà chúng ta còn được chứng kiến ngày nay chỉ là mấy dòng ngắn ngủi trong Đại Việt sử ký toàn thư.(*)Những tóm lược cực ngắn đó được thực hiện bởi các nhà Nho – sử gia thế kỷ XV trở về sau. Thật khó có thể chắc chắn rằng, những tóm lược đó đã từng là những điểm mấu chốt, quan trọng nhất trong tư tưởng Nho học của Hồ Quý Ly thể hiện trong Minh Đạo cũng như các tác phẩm khác; bởi lẽ, nó được thực hiện bởi những người hoàn toàn không có thiện cảm với ông và việc trích dẫn nhằm phục vụ cho mục tiêu rất rõ ràng mà chúng tôi sẽ đề cập tới ở sau. Chúng ta chỉ có thể tin rằng, những điều được dẫn ra trong Đại Việt sử ký toàn thư là có thực trong các văn bản Hồ Quý Ly đã viết, nhưng sự thực đó chỉ là một phần. Điều đáng nói là, những câu chữ ngắn gọn ấy lại là những điều rất độc đáo, rất có sức nặng thông tin, và còn rất quan trọng nữa… Sự đa dạng trong các ý kiến đánh giá về tư tưởng Nho học của Hồ Quý Ly hầu hết đều liên quan tới cách đọc những dòng chữ ngắn ngủi trong Đại Việt sử ký toàn thư.

Bài viết ngắn này không hy vọng giải quyết mọi vấn đề trong tư tưởng Nho học của Hồ Quý Ly, mà chỉ đặt ra mục tiêu phân tích những cách đọc khác nhau đối với các thông tin về tư tưởng Nho giáo của ông, đặt chúng trong khung cảnh vận động tư tưởng của chính Nho học, của thời đại và người viết sơ bộ đưa ra cách đọc của riêng mình.

Chúng tôi cũng bắt đầu bằng việc dẫn lại các đoạn ghi chép trong Đại Việt sử ký toàn thư có liên quan tới tư tưởng Nho học của Hồ Quý Ly.

Có thể nói, các ghi chép trong bộ chính sử quan trọng nói trên bắt đầu nhắc tới Hồ Quý Ly từ những năm đầu thập kỷ 70 của thế kỷ XIV và kéo dài tới nhiều năm sau khi nhà Hồ bị diệt. Đọc những trang sử đó, chúng ta thấy ông được nhắc tới rất nhiều, xuất hiện liên tục, càng gần tới thời điểm giành ngai vàng thì các ghi chép càng dày đặc. Tuy nhiên, đó chủ yếu là những ghi chép về các hoạt động chính trị, quân sự, ngoại giao… nói chung. Những dòng chép trực tiếp về tư tưởng và hoạt động học thuật của Hồ Quý Ly rất ít ỏi. Do tính quan trọng của tư liệu, chúng tôi thấy cần phải dẫn toàn văn hơn là tóm lược và dẫn ý:

Tháng 12 năm Quang Thái 5 [1392] “Quý Ly soạn sách Minh đạo gồm 14 thiên dâng lên. Đại lược cho Chu Công là tiên thánh, Khổng Tử là tiên sư. Văn Miếu đặt tượng Chu Công [22b] ở chính giữa, nhìn về phương nam, Khổng Tử ở phía bên, nhìn về phương tây. Cho sách Luận ngữ có bốn chỗ đáng ngờ, như Khổng Tử ra mắt nàng Nam Tử, Khổng Tử bị hết lương ở nước Trần, Công Sơn, Phật Hất cho gọi, mà Khổng Tử đều muốn tới giúp… cho Hàn Dũ là “đạo nho”; cho bọn Chu Mậu Thúc, Trình Di, Dương Thì, La Trọng Tố, Lý Diên Bình, Chu Tử, tuy học rộng nhưng ít tài, không sát với sự việc, chỉ thạo cóp nhặt [văn chương người xưa]. Thượng hoàng ban chiếu dụ khen. Quốc tử trợ giáo Đoàn Xuân Lôidâng thư nói bàn thế là không phải, bị đày đi châu gần. (Xuân Lôi người xã Ba Lỗ, huyện Tân Phúc là người thông minh, nhanh trí, hiểu biết, có kinh nghiệm, sau làm quan đến Trung thư hoàng môn thị lang kiêm tri ái Châu thông phán, chết tại chức). [Xuân Lôi] khai là Đào Sư Tíchcó xem thư ấy, nên Sư Tích bị giáng làm Trung thị lang đồng tri thẩm hình viện sự” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 22a-b).

Năm Quang Thái 7 [1394] Mùa xuân, Tháng 2, Thượng hoàng sai thợ vẽ tranh Chu Công giúp Thành Vương, Hoắc Quang giúp Chiêu Đế, Gia Cát giúp Thục Hậu chúa, Tô Hiến Thành giúp Lý Cao Tông, gọi là tranh “Tứ phụ”, ban cho Quý Ly để giúp quan gia cũng nên như thế” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 23b).

Năm Quang Thái 8 [1395] Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Quý Ly được ở nhà bên hữu sảnh, đài gọi là “Họa lư”. Quý Ly nhân biên chép thiên Vô dật, dịch ra quốc ngữ để dạy Quan gia, mệnh lệnh ban ra thì xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 25a-b).

Năm Quang Thái 9 [1396] “Tháng 11, Quý Ly làm sách Quốc ngữ Thi nghĩa và bài tựa, sai nữ sư dạy hậu phi và cung nhân học tập. Bài tựa phần nhiều theo ý mình, không theo Tập truyện của Chu Tử” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 27b).

Theo những thông tin của chính sử, có thể khẳng định Hồ Quý Ly đã thể hiện tư tưởng của mình về Nho giáo bằng việc viết sách Minh Đạo gồm 14 thiên; soạn Quốc ngữ Thi nghĩa và dịch thiên Vô dật trong Thượng thư ra quốc ngữ. Ngày nay, tất cả các tài liệu nói trên đều đã thất truyền. Ngoài ra, Hồ Quý Ly còn có một số hoạt động thực tế thể hiện quan điểm và thái độ của ông đối với Nho giáo. Đại Việt sử ký toàn thư  có ghi chép một số sự kiện:

– Năm 1397, Hồ Quý Ly ra lệnh cho đặt các học quan, cấp học điền ở các phủ lộ để cho học quan và đốc học dạy bảo học trò cho thành tài, rồi cứ tới cuối năm tiến cử người ưu tú lên triu đình. Nhưng theo lời của Ngô Sĩ Liên thì lệnh này tuy ban ra nhưng chưa được thi hành (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 30a).

– Mùa thu năm 1400, Hồ Quý Ly cho mở khoa thi Thái học sinh, lấy đỗ 20 người, trong đó có Nguyễn Trãi, Lưu Thúc Kiệm, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên, Hoàng Hiến, Nguyễn Thành… (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 37b-38a).

Có thể thấy, Hồ Quý Ly cũng có những động thái thể hiện việc đề cao Nho giáo và Nho học, trọng dụng các Nho thần trong thực tế.

2. Đánh giá của các nhà Nho về Hồ Quý Ly

Xung quanh những sự kiện nêu trên, các ý kiến đánh giá (các cách đọc) chủ yếu chia thành hai hệ thống: phê phán đặc biệt gay gắtkhen ngợi hết lời. Các ý kiến phê phán hầu hết đều là của các nhà Nho. Có thể dẫn một số ý kiến tiêu biểu sau đây:

Ngô Sĩ Liên viết: “Đạo của tiên thánh nếu không có Khổng Tử thì không ai phát huy được; hậu [23a] thánh sinh ra, nếu không có Khổng Tử thì không còn ai làm khuôn phép nữa. Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức mình” (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 23a). Ông cũng khẳng định rằng, các đại Nho đời Tống mà Hồ Quý Ly phê phán là những người xuất sắc, có đóng góp to lớn cho Nho học và đương nhiên, không thể chê bai theo cách của Hồ Quý Ly: “Chu Tử sinh vào cuối đời Tống, kế tiếp công việc chú giải Lục kinh của các nhà nho Hán, Đường, ngược dòng tìm nguồn, hiểu được ý của thánh nhân ở các bộ kinh để lại, rõ được đạo thánh nhân ở những lời huấn giải, vắt óc nghiền ngẫm, lý và tâm dung họp. Ông giải thích thì tường tận, chỉ dẫn thì xa rộng, thực là tập đại thành của các tiên nho và cũng là khuôn mẫu cho những kẻ hậu học. Huống chi lại có Trình Tử xướng ở trước, và Chu Tử bổ sung chỗ chưa hoàn hảo ở sau, thì nghĩa đã tinh lắm rồi. Người sau mà có trước tác, thì cũng chỉ là mở mang cho rộng thêm, tô chuốc cho bóng thêm, có thế mà thôi, sao lại được chê bai bàn cãi? (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 28a).

Ngô Thì Sĩ đánh giá trong Việt sử tiêu án: “Nhan Uyên nói: đạo của Phu tử lớn lắm, thiên hạ không chỗ dung nạp nổi, cho nên ở Lỗ bị trục, ở Tề bị cùng khốn, ở Vệ bị thiệt hại, ở Thái bị vây, bị Yến Anh dèm pha, bị Võ Thúc chê trách, là lời người đồng thời, lại có kẻ truất xuống làm trung hiến, giáng làm tiên sư, thật là người mù chê mặt trời, mặt trăng không ánh sáng, có làm tổn hại gì được các vì sáng đó. Còn đến bảo Xương Lê là đạo Nho, Liêm, Lạc là trộm cắp. Đạo học các vị này khi ở Bắc, đã bị khuất trong thời bấy giờ, sang đến Nam, lại cũng bị đời sau bài bác, các ông thật là gặp ách vận, đáng than”.

Dòng phê phán này ta còn có thể đọc được tới tận cuốn Việt Nam sử lược của nhà sử học Trần Trọng Kim đầu thế kỷ XX.

Các nhà Nho đã không thể bình tĩnh, điềm đạm phê phán Hồ Quý Ly theo kiểu ẩn ngôn, hay vi ngôn mà đã “nhảy dựng lên” không tiếc dùng vô số đại ngôn, trực ngôn để phê phán.

Khi chép những trang về Hồ Quý Ly trong Đại Việt sử ký toàn thư, các sử gia nhà Nho đã đưa vào rất nhiều chi tiết, ngôn hành nhắm tới một mục đích là dựng lại một chân dung phản diện, một kẻ tặc thần soán đoạt. Họ muốn miêu tả thật kỹ một Hồ Quý Ly từ lúc mới vào triều đã nhiều tham vọng, không từ một thủ đoạn nào để thâu tóm quyền lực và giành giật ngai vàng, ngay cả khi ngai vàng đó là của con rể và cháu ngoại của mình. Trong các truyện, ký, thực lục, và thậm chí cả biên niên lịch sử thời kỳ trung đại, các nhân vật đức độ, tài năng (tức chính diện) thường chỉ nhận được mấy dòng mô tả tán dương công đức chung chung ước lệ với vô số mỹ từ giống nhau. Nhưng tình hình lại rất khác khi các tác giả cần khắc họa về cái xấu của nhân vật phản diện. Ở những chỗ đó, ngòi bút của họ thường trở nên sắc sảo, chi tiết, và các nhân vật phản diện thường hiện lên sống động, cụ thể và hiện thực hơn. Họ thường nắm lấy các chi tiết, ngôn hạnh cụ thể có sức biểu cảm cao. Hồ Quý Ly đã được Đại Việt sử ký toàn thư mô tả theo bút pháp như vậy suốt từ khi ông xuất hiện cho tới khi bị bắt ở núi Thiên Cầm. Các chi tiết về việc viết sách, diễn Nôm kinh điển, nội dung các sách được nói tới, đem mấy nhà Nho phản đối đi đày… ngoài ý nghĩa là các sự kiện lịch sử khách quan cần chép, còn được xem là một bộ phận, là công cụ để nhà sử học Nho gia khắc họa nhân cách, tính cách, nhân phẩm, tư tưởng của nhân vật lịch sử này. Mà tính khuynh hướng của việc chép về Hồ Quý Ly, như đã phân tích ở trên, là theo hướng “biếm trừng” chứ không phải “bao khuyến”. Như vậy, có nghĩa là các chi tiết đó nhằm để minh chứng thêm cho một Hồ Quý Ly xảo quyệt trong chính trị, tàn nhẫn trong ứng xử và vô đạo xét về phương diện một nhà Nho. Thậm chí, việc diễn Nôm một cuốn kinh điển và thiên Vô Dật được nói tới cũng có thể nằm trong hệ thống chê bai, phê phán chứ chưa chắc đã là khen.

Sau khi đã công phu dựng lên một Hồ Quý Ly phản diện, nhà Nho thấy vẫn chưa yên tâm, những đoạn “sử thần bàn rằng” với những lời mắng chửi không tiếc lời được xem là hoàn tất và khép lại công việc cái quan định luận với một nhân vật lịch sử.

Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ và các nhà Nho khác đã đứng từ góc độ người bảo vệ cho quan điểm đạo đức chính thống của Nho giáo để phát ngôn. Lớp nhà Nho từ Ngô Sĩ Liên về sau đều là những người thấm nhuần Tính lý học của Tống Nho. Họ là những nhà đạo đức và có thể được xem là những người cùng một phía với những người đã bị Hồ Quý Ly phê phán.

Đọc kỹ lại các phê phán của nhà Nho, ta thấy hầu như họ không tranh luận từng vấn đề, không đưa dẫn chứng để bác bỏ, mà là bày tỏ thái độ không đồng ý, chứ không phải phản đối bằng cách tranh luận và đương nhiên, càng không phải là sự phê phán triết học, dẫu rằng chúng đều trong phạm vi của triết lý nhân sinh. Họ cũng không dừng lại từng điểm và đối thoại từng điểm. Họ phát tiết bất bình và mắng mỏ hơn là tranh luận học thuật. Với thái độ đánh giá như vậy, đương nhiên khó có được một sự đánh giá khách quan, chân thực về học thuật của Hồ Quý Ly.

3. Các học giả hiện đại đề cao Hồ Quý Ly

Nếu như xu hướng chung của các nhà Nho phê phán gay gắt Hồ Quý Ly thì ngược lại, các học giả hiện đại thế kỷ XX lại không tiếc lời ca ngợi ông. Có thể dẫn một số ví dụ tiêu biểu:

Nguyễn Đổng Chi viết: “Tư tưởng và hành vi của nhà độc tài ấy có thể sánh với Vương An Thạch (1021-1086) đời Tống bên Tàu. Vương cũng có một độ bài xích những lối học huấn hỗ và chú sở của tiên nho cùng là chủ trương những vấn đề cải lương Trung Quốc. Họ Hồ đã chịu mạnh cái tinh thần đó nên quyết tâm mở một lối thực học đi đôi với nền tảng quốc gia xã hội mong làm cường thịnh nước nhà. Người sau này còn hơn người trước về chỗ chiếm lấy chiếc ngai vàng cho tiện bề hành động. Nhưng đáng tiếc cho chiếc ngai vàng ấy không bao lâu bị sụp đổ và lôi cuốn mọi thứ đi mất. Bàn tay phá hoại ấy chính là người Minh, nhưng một số đông người Việt Nam lấy cớ phục hồi nhà Trần mở đường đón giặc, họ phải chịu một phần trách nhiệm”(1).

Nguyễn Đức Sự nhận xét: “Ở cuối đời Trần còn xuất hiện xu hướng muốn sửa chữa và uốn nắn chính ngay những nguyên lý và tín điều của Nho học. Đại biểu cho khuynh hướng này là Hồ Quý Ly, một người có đầu óc cải cách táo bạo… Hồ Quý Ly đã tiếp thu và sử dụng Nho giáo một cách có phê phán, chứ không phải rập khuôn như các nhà Nho đương thời… Xu hướng sửa lại những tín điều của của Nho giáo do Hồ Quý Ly làm đại biểu cũng như xu hướng chống chủ nghĩa giáo điều nói trên đã thể hiện được cái học phong tự do phóng khoáng của những bộ óc độc lập tự cường thời Trần”(2).

Phạm Văn Sơn viết: “Nho Giáo và tư tưởng của các hiền giả Trung Quốc từ Lý qua Trần được dân ta hết sức suy tôn. Chữ Nho giữ một ưu thế đặc biệt trong văn học và các giấy tờ hành chánh. Chữ Nôm dưới đời Trần mới chỉ được dùng trong các thi ca mà thôi. Cờ đến tay, Quý Ly vốn có tinh thần cải cách và óc độc lập, tự tin liền đề cao vai trò của văn chương quốc âm và dám lật nhào cả những lý thuyết bất khả xâm phạm qua bao nhiêu thế kỷ của các thánh hiền Trung Quốc”(3). “Muốn sao, ta cũng phục họ Hồ có một tinh thần độc lập, chịu suy xét, dám tự tin, dám hoài nghi, không a dua hót bậy, nịnh sằng như đám nho sĩ trước và sau đấy chẳng riêng gì ở Việt Nam. Nếu trong tư tưởng giới của ta hay của Trung Quốc có nhiều nhân vật lỗi lạc như họ Hồ, có lẽ văn minh, học thuật Á Đông còn rạng rỡ hơn nữa”(4).

Một cách chừng mực và cân nhắc hơn, Tạ Chí Đại Trường viết: “Từ sự chọn lựa vị thế chính trị đó dẫn đến sự bài bác Luận ngữ và các Tống nho nổi danh như hai họ Chu, hai anh em họ Trình, thật là dễ hiểu. Đã nói chúng ta không có chi tiết lí luận của ông để có thể bàn sâu thêm, nhưng cái ý chính nổi bật của ông rõ ràng là không muốn theo khuôn thức thời đại, dù là khuôn thức của Thiên triều, của trung tâm xuất phát luồng tư tưởng chủ đạo đang lưu hành ở đất nước phiên thuộc. Từ tình thế riêng biệt của đất nước có ông ra tay đảm trách, ông muốn lập ra một môn phái mới (mà chúng ta không biết là gì) để cạnh tranh với các môn phái đương thời. Với vài câu còn lại trong sử, ta thấy ông chê trách các danh gia Tống nho đi vào lí thuyết mông lung nhiều mà không chú trọng đến thực hành. Vì thế dưới mắt Hồ Quý Ly, Hàn Dũ mà danh tiếng nổi bật không phải vào lúc sinh thời (tuy với bài biểu đòi đốt xương Phật) nhưng được bốc cao nhờ các Tống nho về sau, con người của văn từ rổn rảng đó bị ông đặt vào hàng ngũ “đạo nho” (nho ăn trộm, nho vặt vãnh), cũng không phải là quá quắt. Nói một cách khác, Quý Ly là nhà chính trị, là con người của hành động, không ưa lý thuyết, nên chê Tống nho “học rộng nhưng ít tài”, chê Khổng Tử thiếu ứng biến, chao đảo không quyết đoán”(5).

Trần Ngọc Vương trong “Phác thảo Nho giáo ở Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV-XVII” cũng nhận định: “Bước đầu nêu yêu cầu thẩm xét lại kinh điển Nho giáo, tuyển lựa lấy cái gì phù hợp cho Việt Nam – Bốn điểm ngờ vực đối với Luận ngữ phản ánh một tinh thần tự chủ trong học thuật – cả việc đưa Chu Công lên trên Khổng Tử, cả việc tổ chức dịch kinh điển Nho giáo ra quốc âm cũng là trên tinh thần đó”(6).

Cao Tự Thanh thì coi việc Hồ Quý Ly phê phán Tống Nho như là một biểu hiện của quá trình tìm kiếm học thuyết chính trị hoàn toàn độc lập với Trung Quốc: “… Song mặc dù đã có một Trần Nghệ Tông phê phán lối rập khuôn thể chế Trung Hoa của “bọn học trò mặt trắng”, một Hồ Quý Ly chê bai những cây đại thụ của Tống nho Trung Quốc là “học rộng nhưng ít tài”, chính quyền cũng như giới trí thức Việt Nam thời Lý – Trần và cả Hồ sau đó vẫn không đưa ra được một học thuyết chính trị nào hoàn toàn độc lập với mô hình phương Bắc”(7).

Ý kiến đánh giá của các nhà nghiên cứu hiện đại được trích trên đây chỉ là một phần những ý kiến, công trình đã được xuất bản, công bố có liên quan tới Hồ Quý Ly. Nhìn tổng thể, ý kiến của các nhà nghiên cứu hiện đại là khẳng định, đề cao, ca ngợi. So với sự đánh giá của các nhà Nho thời kỳ trung đại là hoàn toàn trái ngược. Chúng ta cũng nhận thấy các ý kiến đề cao, ca ngợi, khẳng định đối với tư tưởng Nho giáo của Hồ Quý Ly hầu hết đều đứng từ quan điểm dân tộc để đánh giá. Cũng có khi nó là một cái cớ để bày tỏ tình cảm dân tộc nồng hậu của chính tác giả bài viết hơn là sự phân tích khoa học.

Trong những thời kỳ ngọn cờ phản phong kiến được giương cao, Tống Nho bị đồng nhất với phong kiến cổ hủ, phản động, thì các ý kiến phê Tống Nho của Hồ Quý Ly càng được đề cao. Thái độ với Nho giáo của Hồ Quý Ly được coi là một thành tố của các hoạt động cải cách, tư tưởng cải cách, của sự đề cao tinh thần độc lập tự chủ của dân tộc, đề cao văn hóa dân tộc. Việc ông chê bai các đại Nho Trung Quốc được xem như một bản lĩnh của nhà cải cách, một chủ động sáng tạo trong tiếp nhận và bản lĩnh dân tộc xét trong quan điểm đối xử với Nho giáo Trung Quốc.

Nhưng chúng ta cũng thấy các ý kiến khen ngợi của các học giả đã dẫn ở trên chủ yếu là khen, là tán dương mà chưa phải là những phân tích và nghiên cứu thấu đáo theo chiều sâu của từng vấn đề, từng câu chữ và cũng chưa ai đặt nó trong khung cảnh chuyên biệt của các vận động Nho học, cũng như đặt trong khung cảnh rộng hơn của sự vận động chính lịch sử Nho học để nhìn nhận, đánh giá. Và từ góc độ này, tuy khác các nhà Nho thời trước về thái độ và chiều hướng, nhưng lại giống họ về phương pháp thể hiện, cách nhìn nhận và đều chỉ là sự khen hay chê, tán thưởng hay bài bác.

Trong thực tế, những việc mà Hồ Quý Ly làm có thực sự là sự lật nhào đối với các nhà tư tưởng và chính trị đời Tống? Có phải là Hồ Quý Ly muốn đề ra một lý thuyết mới? Có phải ông ghét lý thuyết, có phải đó là khuynh hướng chống giáo điều?… Đây là những vấn đề cần phải làm rõ thêm.

4. Phân tích từ góc độ động cơ và mục đích

Các ghi chép liên quan tới Hồ Quý Ly là những sự kiện thuộc giai đoạn từ những năm đầu thập kỷ 70 thế kỷ XIV, tới khi người Minh bắt cha con Hồ Quý Ly đưa về Trung Quốc. Các sự kiện có liên quan tới thời kỳ làm quan và làm vua của Hồ Quý Ly kéo dài trên 30 năm lịch sử. Nhưng đọc kỹ các nội dung ghi chép trong cuốn sử ký này, chúng ta thấy người ghi từ chỗ đứng là một nhà Nho chính thống (cái chính thống xét trên cơ sở các nhà Nho thấm nhuần tinh thần Nho học Tống Minh), đã chỉ chọn lọc những chi tiết, sự kiện nhằm chứng minh cho những sai lầm liên tiếp của vua Trần trong việc dùng Hồ Quý Ly, cũng như con đường của họ Hồ đi từng bước tới cướp ngôi. Giống như việc xây dựng các nhân vật lịch sử khác, nhà Nho mang một thiên kiến có sẵn về một nhân vật lịch sử nào đó. Các chi tiết chọn lọc chỉ nhằm làm rõ một vài nhận định về nhân vật đã được định ra từ trước. Các ghi chép chỉ để dẫn dắt người đọc tới việc hiểu về một quá trình, vận động một cách ổn định của một nhân cách. Vì thế, người chép sử chỉ chọn và chép các chi tiết phục vụ việc làm rõ nhân cách Hồ Quý Ly mà theo họ là kẻ gian thần, phản thần, bội đức, và một ông vua tiếm vị nhiều tội lỗi. Những chi tiết chỉ cho chúng ta thấy một phương diện về nhân vật lịch sử Hồ Quý Ly mà thôi. Tuy nhiên, điều này cũng có cái thú vị của nó. Vì chứng minh một nhân cách phản diện tiêu biểu, nên nhà Nho đã chú ý ghi chép cho hậu thế nhiều tình tiết sinh động ít thấy trong các ghi chép của nhà Nho về những ông vua nhân từ, kẻ sĩ đạo đức. Những người này thường chỉ được ghi chép rất chung chung, mờ nhạt và ước lệ. Những tình tiết khá sống động này chủ yếu tập thành một hệ thống, hệ thống trái ngược với nguyên tắc đạo đức chính thống theo kiểu Tống Minh Nho. Việc chê bai Tống Nho cũng được ghi chép trong không khí chung như vậy. Theo tôi, người chép sử chép các sự kiện phê Tống Nho bao hàm cả chê sự khen của Nghệ Tông đối với 14 thiên Minh Đạo, đồng thời chê “thiển kiến” của Hồ Quý Ly. Điều này chúng ta thấy rõ hơn trong ngay chính lời “sử thần bàn rằng” sau các đoạn ghi chép. Ghi để biếm trừng cả Nghệ Tông, các vua cuối triều Trần và Hồ Quý Ly, dĩ nhiên đối tượng chính vẫn là nhằm vào Hồ Quý Ly.

Có thể thấy các sự kiện thể hiện thái độ của Hồ Quý Ly đối với Nho giáo đã dẫn ở trên diễn ra gần như liền nhau, liên tục trong các năm: 1392 – 1394; 1395; 1396. Nó cũng diễn ra vào thời điểm Hồ Quý Ly đang leo lên những nấc thang quyền lực cao nhất, trước khi giành ngai vàng. Những người chép các sự kiện thể hiện thái độ của ông với Nho giáo hầu như không chép tách bạch mà chép lẫn vào các sự kiện thâu tóm quyền lực. Điều này có thể là một ẩn ý. Chẳng hạn, sự kiện năm Ất Hợi, niên hiệu Quang Thái 5 [1395]: “Mùa hạ, tháng 4, xuống chiếu cho Quý Ly được ở nhà bên hữu sảnh, đài gọi là “Hoa lư”. Quý Ly nhân biên chép thiên Vô dật, dịch ra quốc ngữ để dạy Quan gia, mệnh lệnh ban ra thì xưng là Phụ Chính Cai Giáo Hoàng Đế”. (Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỉ, q.8, tờ 25a-b). Chúng ta cũng cần phân tích, có mối liên hệ trực tiếp nào hay không giữa các nấc thâu tóm quyền lực và các chi tiết thể hiện thái độ của ông với Nho giáo. Sự kiện dâng sách Minh Đạo, dịch thiên Vô dật dạy vua trẻ, đề cao Chu Công… cho tới sự kiện Đoàn Xuân Lôi và Đào Sư Tích bị biếm trích vì phản đối Hồ Quý Ly cho ta thấy động cơ của Hồ Quý Ly khi thảo luận về Nho giáo mang sắc thái chính trị trực tiếp và đậm nét. Ông ta muốn đem sức mạnh của chính trị, của quyền lực ra áp đặt và điều khiển tư tưởng cùng học thuật của sĩ phu, quan lại. Hồ Quý Ly muốn nêu ra những ý kiến của riêng mình nhằm khẳng định phương diện tư tưởng và học thuật của mình trong con mắt của sĩ phu, bắt họ phải thừa nhận thậm chí là vì sợ hãi chứ không phải vì chân lý của học thuật. Cái mà Hồ Quý Ly muốn là sự thần phục của sĩ phu, bằng mọi cách, cả khoe kiến văn, tư tưởng, học vấn (không cần biết đúng sai), lẫn thanh trừng, chém giết.

Chúng ta sẽ phân tích kỹ từng sự kiện.< Xem tiếp>